Trong thành ngữ dân gian, hoặc trong cuộc sống xã hội trước đây, đôi lúc người ta nghe nói: “Phép vua thua lệ làng”. Vậy thực chất “lệ làng” là gì mà đến nỗi “phép vua” (được hiểu như luật pháp) có khi phải “chịu thua”?
Hình minh hoạ
“Lệ làng” là tên gọi nôm na trong dân gian để chỉ hương ước hay còn gọi là khoán ước, hương biên, hương lệ, hương khoán, khoán làng...
I. Hương ước là gì?
Hương ước là một biểu hiện quan trọng của nền văn hoá dân gian ở làng quê và mang đặc điểm riêng ý thức hệ của người dân trong mỗi ngôi làng. Hương ước, luật làng đã tồn tại song song cùng với luật pháp và nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, cắm rễ, ăn sâu trở thành nếp cảm, nếp nghĩ của con người.
Hương ước là thuật ngữ gốc Hán, khi du nhập vào Việt Nam nó vẫn được giữ nguyên nghĩa. Hương ước là những quy ước, điều lệ của một cộng đồng chung sống trong một khu vực. Là bản pháp lý đầu tiên của các làng xã nhằm góp phần điều hòa các mối quan hệ trong xã hội cộng đồng. Hương ước là bản ghi chép các điều lệ (những quy tắc xử sự chung) mang tính bắt buộc phải tuân thủ, liên quan đến đời sống của cộng đồng dân cư sinh sống trong làng. Các điều lệ này hình thành dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết.
Hương ước còn có các tên gọi khác như hương biên, hương lệ, hương khoán, khoán làng...
Trong làng xã Việt Nam xưa, luật lệ tồn tại dưới nhiều hình thức, từ luật lệ truyền miệng đến luật lệ thành văn. Một số hương ước thành văn đã thể hiện, chính nó đã kế thừa luật lệ truyền miệng trước đó. Điều đó chứng tỏ rằng, từ rất sớm các công xã cổ truyền rồi đến công xã nông thôn đã xuất hiện các khoán ước mà phổ biến là quy ước truyền miệng.
Tiếc rằng, sau cách mạng tháng Tám, cơ cấu tổ chức làng xã phong kiến cũ bị xóa bỏ, hương ước – một trong những công cụ điều khiển mối quan hệ làng xã đã không còn nữa. Song những qui ước tốt đẹp được văn bản hóa vẫn còn sống mãi với thời gian...
Thời Trần (khoảng cuối thế kỷ XVII) Hương ước đã trở nên khá phổ biến trong hệ thống làng, xã Việt Nam. Hầu hết các Hương ước đều đề cập nội dung chính như: an ninh trật tự, quan hệ ứng xử, công ích công lợi, thưởng phạt, đến việc cụ thể bổn phận của con cái đối với cha mẹ, ông bà, vợ đối với chồng, anh đối với em…
Về thời điểm xuất hiện hương ước, các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học từ trước đến nay vẫn chưa khẳng định. Bằng vào các thư tịch cổ, chúng ta mới chỉ biết rằng đến triều đại vua Lê Thánh Tông triều đình đã ra sắc lệnh thể chế hoá hương ước. Bộ luật Hồng Đức đã ghi lại chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông về việc biên soạn và thi hành hương ước như sau:
- Các làng xã không nên có khoản ước riêng vì đã có luật chung của nhà nước.
- Riêng làng xã nào có những tục khác lạ thì có thể lập khoán ước và cấm lệ
- Trong trường hợp đó, thảo ra hương ước phải là người có trình độ nho học, có đức hạnh, có chức và có tuổi tác.
- Thảo xong, phải được quan trên kiểm duyệt và có thể bị bác bỏ.
- Khi đã có khoán ước rồi, mà vẫn có người không chịu tuân theo, cứ nhóm họp riêng, thì những kẻ ấy sẽ bị quan trên trị tội.
Như vậy, có thể thấy rằng, đến đời vua Lê Thánh Tông đã có hương ước rồi nhưng hiện nay chúng ta vẫn chưa tìm thấy bản hương ước nào được soạn thảo vào thế kỷ XVI chứ chưa nói gì đến thế kỷ XV.
Tìm hiểu các văn bản hương ước có thể thấy chúng luôn được điều chỉnh sửa đổi qua các thời kỳ. Xét một trong những bản hương ước thành văn cổ nhất mà chúng ta hiện có là hương ước làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thương Hồng (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) ra đời từ năm 1665 sau đó đã được sửa đổi, bổ sung tới 16 lần, từ 30 điều ban đầu lên tới 82 điều ở bản cuối cùng.
II. Nội dung của Hương ước
Nội dung của các bản hương ước thường gồm 4 quy ước:
- Quy ước về chế độ ruộng đất
Những điều kiện tự nhiên đặc trưng đã quy định nước ta là một nước nôngnghiệp. Nền sản xuất nông nghiệp được thể hiện rõ nét nhất ở nông thôn, đặcbiệt là ở các làng xã. Hương ước các làng đều khẳng định “việc nhà nông là cáigốc lớn” để bảo vệ, phát triển sản xuất và đều ra một số quy định khuyến khích mọi người, mọi nhà tận dụng đất đai để sản xuất và quy định về việc sử dụng ruộng đất.
Như Hương ước làng Quỳnh Đôi - Nghệ Tĩnh có tới 4 điều khoản nói về vấn đề này, trong đó điều 9 quy định “làng xét các nơi trong đồng điền nơi nào trồng hoa quả thì trồng cho hết không được bỏ hoang... Nếu có người không cày bừa để ruộng vườn hoang thì phải phạt”. Hay như ở làng Quýt Lâm, khoản thứ 25 hương ước của làng quy định về ruộng đất của làng: “Một sở vườn đình giao cho tự thừa coi giữ. Một sở vườn nghĩa từ giao cho phu trường coi giữ. Một sở vườn nhà nhóm giao cho giáp làng coi giữ. Một sở vườn đình giao cho từ thừa cày làm…”
Tuy nhiên, ngày nay, việc sử dụng đất đai trong các làng xã phải tuân theo quy định của pháp luật đất đai Việt Nam.
- Quy ước về khuyến nông, bảo vệ sản xuất, môi trường
Về công tác khuyến nông bảo vệ sản xuất được chú trọng nhằm tận dụng diện tích đất. Điều 113 Hương ước làng Quỳnh Đôi - Nghệ Tĩnh quy định: "Nguyên làng ta có một dải ruộng hoang ở xứ Đập Bản và Vụng Cầu, làng nên cho khai khẩn thành ruộng trồng trọt để làm mối lợi thêm cho dân làng, nay làng bản hễngười nào có sức phá vỡ ra cày cấy được khoảng 4 năm, làng cho ăn khôngphải nộp thuế, ngoài 4 năm thì cứ lấy lúa trên ruộng, được bao nhiêu làng chia 3, làng chỉ lấy 1 phần, làng làm như thế trong 20 năm, hết hạn phải giao ruộng cho làng". Điều thứ 1, khoản thứ 5 Hương ước làng Long Phụng quy định: “Các nhà trong làng hè vách đều phải sạch sẽ. Những ao rãnh trong vườn và các hồ ởngoài ngõ vườn, chứa nước dơ dáy là chỗ sanh loại độc trùng và độc khí thì hội hào mục mỗi kỳ hội đồng cho hương kiểm, tộc biểu và hương dịch đi biểu các nhà người lấp liền mấy chỗ lũng ấy như ao hồ cho khỏi các vi trùng sinh đẻ, người nào ở gần đàng tư ích, cấm không được ném đồ dơ dáy, hoặc xác thú vật chết hai bên đàng cái hay nơi ao hồ, phải chôn sâu cho khỏi truyền nhiễm”
Hương ước các làng còn quy định về những điều xử phạt rất nghiêm đối với những hành vi gây ô uế không khí, làm nhiễm bẩn nguồn nước, làm lây lan dịchbệnh trong xóm làng. Như điều 46 Hương ước làng Thanh Liệt (nay thuộc huyện Thanh Trì) ghi: "Người ta ai có mạnh khoẻ thì mới sống lâu, muốn dân làng được mạnh khoẻ thì ai cũng phải biết giữ gìn vệ sinh chung và vệ sinh riêng".
- Quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm các chức dịch của làng
Thành viên trong làng thường chịu sự chỉ huy của những người đứng đầu, phải tuân theo những quy tắc do làng đặt ra và đều bình đẳng với nhau trên cơ sở tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau.
Những người đứng đầu phải có trách nhiệm chỉ huy việc thực hiện các quy định của làng và giải quyết các sự việc xảy ra trong làng. Như tiết kế 1 trong Hương ước của làng Quýt Lâm, phủ Mộ Đức có ghi: “Sở đình hay nhà hội trong làng, nơi căn giữa, thì chức sắc ngồi từng trước, mấy người kỳ lão có danh vọng ngồi từng sau, chức sắc nhượng theo chức hàm, kỳ lão nhượng theo niên xỉ, thủ thứ mà ngồi”.
- Quy ước về văn hoá tinh thần và tín ngưỡng
Hầu như trong hương ước của các lãng xã đều có những quy định về văn hóa ứng xử, tín ngưỡng và các lễ khao vọng, cưới hỏi… nhằm đặt ra những quy tắcx ử sự chung phù hợp với phong tục tập quán của làng xã. Ở mỗi làng đều có những quy định về tín ngưỡng của riêng mình. Điều đó được ghi trong Hương ước của các làng như: Quýt Lâm, phủ Mộ Đức có ghi các Tế tự gồm: Lễ Nguyên đán, Lễ tế Xuân thủ, Lễ cúng Hành khiển, Thượng điền, Hạ điền… Trong đó, Khoản 3, Tiết thứ 2 ghi rõ: “Mỗi năm đến sớm mai ngày 15 tháng giêng, thì tế Xuân thủ tại đình, thường dùng một con heo và phẩm vật, lựa một người kỳ cực đứng vai cứng, lễ ấy chi bạc năm đồng năm giác”.Trong làng thường xuyên có tổ chức các lễ cưới hỏi, rước dâu hay mừng thọ, và những lễ này cũng được quy định trong Hương ước rất chi tiết về các khoản lệ phí phải nộp, thời gian và quy mô tổ chức. Bên cạnh đó, các quy định về văn hoá ứng xử trong làng xã cũng được quy định rất rõ ràng, chi tiết và khá chặt chẽ (quy tắc “kính lão đắc thọ”, “tôn sư trong đạo”…)
Trong các quy ước trên thì quy ước về chế độ ruộng đất có vị trí quan trọng nhất, bởi vì đại đa số người dân cua các làng đều làm nông nghiệp là chủ yếu.
Ngoài bốn loại quy ước cơ bản trên, có làng lại ghi thêm vào hương ước những điều khoản về sự đóng góp các loại công quỹ, về tổ chức khao vọng, về “lễ ra làng” (lễ thành đinh)… Hay là Quy định về thưởng và phạt trong Hương ước, điều mà trong đa số Hương ước của các làng đều có quy định. Ai làm việc tốt, việc có lợi cho dân làng, cho cộng đồng thì được thưởng, ngược lại ai làm điều sai trái gây hại cho làng thì sẽ phải chịu phạt.
Hương ước tồn tại song song cùng luật pháp, giữ vai trò là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng và quản lý làng xã. Trong làng xã Việt Nam xưa, người nông dân tập hợp lại với nhau bằng nhiều hình thức tổ chức: xóm ngõ, dòng họ, phe giáp, phường hội và theo các thiết chế của bộ máy chính trị - xã hội ở địa phương. Mỗi thiết chế hoặc tổ chức ấy có quy định riêng, độc lập, tách biệt với nhau. Hương ước đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà các thiết chế, là sợi dây ràng buộc hữu cơ mọi thành viên, tổ chức.
Hương ước là phương tiện để chuyển tải pháp luật và tư tưởng Nho giáo vào làng xã , hỗ trợ và bổ sung cho pháp luật khi cần xử lí những việc cụ thể nảy sinh từ nếp sống đặc thù của làng. Nó phản ánh văn hoá làng, uốn dân làng vào khuôn phép, gắn bó họ thành một cộng đồng chặt chẽ vì trách nhiệm và quyền lợi chung của làng.
Hương ước cũng là công cụ để Nhà nước can thiệp, quản lý, điều hoà lợi ích giữa làng xã với Nhà nước. Khi Nhà nước phong kiến củng cố địa vị và quyền lực của mình thì làng xã trở thành các đơn vị cống nạp cho chính quyền trung ương. Tuy nhiên Nhà nước chỉ tập trung quản lý các nguồn thuế, lính và phu, còn lại làng tự điều chỉnh các mối quan hệ của mình. Nhờ vậy, làng xã có quyền tự trị tương đối để duy trì những tập tục mà nội dung không đối lập với luật pháp của triều đình.
III. Vai trò của Hương ước trong đời sống người Việt
Với rất nhiều các quy định, điều lệ cùng sự tồn tại bền vững, lâu dài củamình, Hương ước đã có những vai trò, ảnh hưởng rất lớn đến làng xã Việt Nam, đặc biệt là trong thời đại hiện nay.
Nhưng mặt tích cực của Hương ước: Trước hết hương ước góp phần làm hình thành trong làng xã và người nông dân nhiều đức tính truyền thống và quý báu.
+ Truyền thống đoàn kết và cố kết làng xã: Hương ước không chỉ quy định nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng mà còn định rõ trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong đời sống thường nhật; hương ước khuyên răn mọi người ăn ở hòa thuận theo đúng đạo hiếu gia đình, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, túng thiếu hay gặp công to việc lớn trong nhà. Những trường hợp đánh cãi chửi nhau, triệt hạ lúa màu, gia súc, gia cầm của nhau đều bị phạt nặng. Mọi người tìm thấy ở xóm làng không chỉ chỗ dựa về vật chất mà chủ yếu ở tinh thần, một sự đùm bọc giúp đỡ vô tư giữa những người lao động.
Quan tâm đến việc công ích, tích cực đóng góp xây dựng làng xã hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ với làng, với nước. Trước hết từng làng phải đảm bảo đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước về sưu thuế, binh dịch.
Ngoài ra từng làng tự đảm nhiệm các công việc liên quan như thủy lợi, giao thông, đê điều, xây dựng các công trình bảo vệ xóm làng như : hàng rào, cổng làng, tổ chức thờ cúng. Hương ước quy định trách nhiệm cho từng tổ chức, cá nhân và các hàng dân trong làng. Vì vậy các nghĩa vụ có liên quan đến trách nhiệm của công dân được thực hiện. Người nông dân tham gia đầy đủ các công việc trong làng với ý thức trách nhiệm họ cũng đòi hỏi những thành viên khác cũng phải thực hiện như thế.
+ Chủ động trong bảo vệ an ninh thực hiện vai trò tự quản: trong nhiều Hương ước quy định rất cụ thể nhiều khi đến ngặt nghèo, để ngăn chặn các tệ nạn xã hội như trộm cắp, rượu chè, cờ bạc, nam nữ quan hệ bất chính. Hay như các quy định về chế độ canh phòng bảo vệ trật tự trị an trong làng xóm, bảo vệ hoa màu ngoài ruộng đồng. Điều này đã phát huy được tinh thần tự quản, tinh thần đoàn kết và cố kết của người nông dân với làng xã làm cho cuộc sống ở đây có trật tự, làm cho làng trở thành pháo đài kiên cố ngăn chặn giặc ngoại xâm, trộm cướp.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm địch chỉ chiếm được đô thị, kinh kỳ còn khi đến các làng chúng bị thất bại trước sự tấn công và nổi dậy mạnh mẽ của dân binh phối hợp với quân triều đình.
+ Góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn: Những quy định của hương ước về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc tu bổ đến miếu, đình chùa, phục vụ lễ tết rước sách thờ Thần, thờ Phật đã được người dân tuân thủ nghiêm túc, vì lẽ này mà hệ thống đình chùa, đền miếu của các làng thường xuyên được tu bổ tăng thêm một nét đẹp trong cảnh quan của làng xóm.
Nhiều đình chùa có giá trị cao nghệ thuật kiến trúc được xây dựng ở những vị trí đẹp một không gian thoáng đãng đã trở thành niềm tự hào của không chỉ một làng mà của cả tỉnh. Bên cạnh các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng người nông dân tổ chức nhiều lễ hội: Lễ hội nông nghiệp cầu mùa, cầu mưa, hội phồn thực giao duyên, hội hát Xoan hát Ghẹo, hát Ví, các trò diễn hội làng, các môn thể thao dân tộc: Vật, võ, cờ tướng, cờ người, ném còn thu hút sự tham gia của rất nhiều người không phân biệt sang hèn đều say mê với những lễ thức trò diễn, tưởng nhớ các vị thần có công với nước, với làng.
Thông qua việc thờ cúng và các hoạt động văn hóa khác biểu lộ mối cộng cảm với nhau, xích lại gần nhau hơn. Hội làng ngoài việc đáp ứng được các yêu cầu về tâm linh và văn hóa còn có tác dụng giáo dục truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn' và củng cố tinh thần cộng đồng. Hội làng cùng với sinh hoạt phong phú là môi trường tốt nhất để bảo tồn các giá trị di sản văn hóa, làng xã, văn hóa dân tộc.
+ Giúp khắc phục cácchỗ hổng của pháp luật hoặc pháp luật quy định chưa cụ thể, đưa pháp luật đivào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn:
Hương ước biến các quy định chung của pháp luật thành các quy định cụ thể của làng: đơn giản hoá các quy định của luật nước, làm cho ý thức hệ pháp luậtcủa Nhà nước trở nên gần gũi và thâm nhập vào hệ tư tưởng, vào tâm lý và lối sống của mỗi người dân, làm pháp luật trở nên dễ hiểu, dễ áp dụng.
Với lối hành văn dung dị, có vần điệu theo dân gian, Hương ước đi vào đời sống một cách tự nhiên, nên thấm sâu vào đời sống cộng đồng mà ít cần đến các phương tiện tuyên truyền, phổ biến ồn ào, tốn kém.
Hương ước góp phần biến cải khuôn khổ cứng nhắc, các quy tắc có tínhnghiêm khắc lạnh lùng của luật pháp thành sự uyển chuyển, linh động và biếnhoá trong lối hành xử của các cộng đồng. Ở Hương ước, lệ làng, ta nhận thấycác tinh thần khoan dung, độ lượng và uyển chuyển, hoá giải cái khô cứng, hàkhắc, đôi khi là tàn bạo của luật pháp.
Hương ước đưa ra nhiều quy định cụ thể bổ khuyết vào các lỗ hổng củapháp luật, trong các mối quan hệ cụ thể của cuộc sống làng xã. Các vấn đề nhưchia ruộng đất công, lão quyền, nam quyền, phụ quyền, trưởng quyền, an ninhlàng xã, đời sống tâm linh của cộng đồng… Thường là những vấn đề được quyđịnh chung chung trong luật nước lại rất cụ thể trong các Hương ước.
Những mặt tiêu cực của Hương ước: Trước hết là tư tưởng cục bộ địa phương, bè phái và những điều khoản của hương ước chỉ liên quan đến công việc, tới tập tục làng xã do vậy nó góp phần tạo ra tâm lý chỉ quan tâm đến lợi ích của làng mình " Ăn cây nào rào cây ấy", "Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ" ít quan tâm đến quyền lợi làng khác.
Làng với kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc với các tổ chức xã hội riêng, tập tục riêng đã được hương ước thể chế hóa do đó làng trong tâm thức của người nông dân là nhất. Thành viên nào cũng mang trong mình và tự hào về điều này. Điều này giải thích tại sao có người nông dân vì danh dự của làng dẫn đến hành động "quá tả" lao vào các cuộc tranh chấp đất đai, cãi vã, ẩu đả tập thể ...thực chất chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp chức sắc, chức dịch trong làng, bị một số quan trên lợi dụng.
Việc quản lý làng xã bằng Hương ước là một trong những cơ sở để hình thành lối sống theo lệ làng không quen sống với pháp luật, thậm chí còn coi thường pháp luật (phép vua thua lệ làng). Nhìn chung người nông dân trong làng ít được trang bị kiến thức về pháp luật và cho đến nay thì điều này vẫn còn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa miền núi dân tộc. Đây là vật cản lớn trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những nhà quản lý phải có những biện pháp tích cực trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi người dân để nâng cao trình độ dân trí.
Mặt hạn chế của Hương ước xưa phải kể đến là góp phần làm tăng các hủ tục nặng nề trong đám cưới, đám tang, khao vọng, hội lễ. Một tác động tiêu cực khác từ hậu quả của những hủ tục trong cưới, tang, khao vọng, hội lễ đã tạo ra óc mê tín dị đoan, quá tin vào tôn thờ thế lực siêu tự nhiên; cưới xin chọn ngày chọn giờ, cô dâu chú rể phải so tuổi, tang ma cũng phải xem giờ để nhập quan mai táng, con cái báo hiếu cha mẹ phải coi trọng phần mộ (đến nay tình trạng đô thị hóa nghĩa trang ngày càng phát triển, mọi người đều xây mộ to lấn chiếm cả đất canh tác).
Hoàng Homin / Đại học Văn hoá Hà Nội
REACTION
Đăng nhận xét